Trở thành chuyên xưng Phò mã

Nhà Đường thành lập, thiết trí Phò mã Đô úy, hàng Tòng ngũ phẩm, đều do chồng của công chúa đảm nhậm[10]. Cựu Đường thư ghi lại, Phò mã Đô úy thường đều do thân tộc hoàng thất đảm nhiệm, đến Đường hội yếu (唐會要) trực tiếp lấy Phò mã như một danh từ riêng chỉ đến chồng của công chúa. Từ đây, Phò mã cũng thành chuyên xưng của chồng của các công chúa. Thời nhà Tống, chức vị Phò mã vẫn là Tòng ngũ phẩm[11]. Thời nhà Nguyênnhà Liêu, "Phò mã Đô úy" được gia phong cho các chồng của công chúa như một vinh hàm, lại thường kèm theo chức hàm Thái sư và gia thêm tước Vương. Thời nhà Kim định hàm Chính tứ phẩm[12].

Thời kỳ nhà Minh, Phò mã lại dần trở thành một phẩm vị, gần với tước hiệu hơn là chức vụ, như Minh sử ghi lại là vị trên Bá tước vậy[13]. Sang thời kỳ nhà Thanh, các Phò mã được gọi là Ngạch phụ (chữ Hán: 額駙; tiếng Mãn: ᡝᡶᡠ, Möllendorff: efu), hay "Ngạch phò", và đây là cách gọi chung của chồng của các Công chúa lẫn Cách cách của triều Thanh.

Có thể thấy, đời Thanh quy định "Ngạch phụ" không phải tên chức quan như Phò mã Đô úy của các triều trước, mà là danh phận dùng để gọi chồng của Hoàng nữ Tông nữ triều Thanh, rất giống quy định đem "Phò mã Đô úy" sang liệt tước của đời Minh. Do đích-thứ khác biệt, hơn nữa lại không phân Phò mã cùng "Nghi tân" như đời Minh, các Ngạch phụ có địa vị cao hay thấp cũng hoàn toàn dựa vào địa vị của người vợ. Đây là bảng thân phận, chức hàm của Ngạch phụ thời Thanh hoàn thiện:

Địa vị Ngạch phụ thời Thanh
Tông nữ tước vịDanh xưng của Ngạch phụPhẩm vị
Cố Luân công chúa (固倫公主)Cố Luân ngạch phụ (固倫額駙)Ngang với Cố Sơn Bối tử
Hòa Thạc công chúa (和碩公主)Hòa Thạc ngạch phụ (和碩額駙)Ngang với Siêu phẩm Công
Quận chúa (郡主)Quận chúa ngạch phụ (郡主額駙)Ngang với quan võ Nhất phẩm
Huyện chúa (縣主)Huyện chúa ngạch phụ (縣主額駙)Ngang với quan võ Nhị phẩm
Quận quân (郡君)Quận quân ngạch phụ (郡君額駙)Ngang với quan võ Tam phẩm
Huyện quân (縣君)Huyện quân ngạch phụ (縣君額駙)Ngang với quan võ Tứ phẩm
Hương quân (鄉君)Hương quân ngạch phụ (鄉君額駙)Ngang với quan võ Ngũ phẩm

Triều Tiên, người chồng của Công chúa đều có danh hiệu Phò mã Đô úy. Tại Việt Nam, lần đầu tiên xuất hiện danh xưng này là khi Đinh Bộ Lĩnh gả con gái Minh Châu công chúa cho Trần Thăng (陳升), em trai Trần Minh Công[14], từ ấy đến triều đại nhà Nguyễn thì đều phong chồng của công chúa làm Phò mã Đô úy, quan võ hàm Tòng tam phẩm.

Liên quan